Artificial artist – Cambridge IELTS 13, Test 1

Artificial artist?

Nghệ sĩ nhân tạo?

Can computers really create works of art?

Máy tính có thể thực sự tạo ra các tác phẩm nghệ thuật?

The Painting Fool is one of a growing number of computer programs that, so their makers claim, possess creative talents.

The Painting Fool là một trong số các chương trình máy tính ngày càng tăng mà những người tạo ra chúng tuyên bố là sở hữu những tài năng sáng tạo.

 

Classical music by an artificial composer has had audiences enraptured and even tricked them into believing a human was behind the score.

Âm nhạc cổ điển của một nhà soạn nhạc nhân tạo đã khiến khán giả mê mẩn, thậm chí còn lừa họ tin rằng có con người đứng sau bản nhạc.

Artworks painted by a robot have sold for thousands of dollars and been hung in prestigious galleries. And software has been built which creates are that could not have been imagined by the programmer.

Các tác phẩm nghệ thuật do robot vẽ đã được bán với giá hàng nghìn đô la và được treo trong các phòng trưng bày danh tiếng. Và phần mềm đã được xây dựng tạo ra những thứ mà lập trình viên không thể tưởng tượng được.

Human beings are the only species to perform sophisticated creative acts regularly. If we can break this process down into computer code, where does that leave human creativity?

Con người là loài duy nhất thường xuyên thực hiện các hoạt động sáng tạo phức tạp. Nếu chúng ta có thể chia quá trình này thành mã máy tính, thì khả năng sáng tạo của con người sẽ ở đâu?

‘This is a question at the very core of humanity,’ says Geraint Wiggins, a computational creativity researcher at Goldsmiths, University of London. ‘It scares a lot of people. They are worried that it is taking something special away from what it means to be human.’

Geraint Wiggins, nhà nghiên cứu sáng tạo máy tính tại Goldsmiths, Đại học London, cho biết: “Đây là câu hỏi cốt lõi của nhân loại. ‘Nó khiến nhiều người sợ hãi. Họ lo lắng rằng điều đó đang lấy đi một thứ gì đó đặc biệt khỏi ý nghĩa của việc làm người.’

To some extent, we are all familiar with computerized art. The question is: where does the work of the artist stop and the creativity of the computer begin?

Ở một mức độ nào đó, tất cả chúng ta đều quen thuộc với nghệ thuật vi tính hóa. Câu hỏi đặt ra là: công việc của người nghệ sĩ dừng lại ở đâu và sự sáng tạo của máy tính bắt đầu từ đâu?

 

Consider one of the oldest machine artists, Aaron, a robot that has had paintings exhibited in London’s Tate Modern and the San Francisco Museum of Modern Art.

Hãy xem xét một trong những nghệ sĩ chế tạo máy lâu đời nhất, Aaron, một người máy đã có những bức tranh được trưng bày tại Tate Modern của Luân Đôn và Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại San Francisco.

Aaron can pick up a paintbrush and paint on canvas on its own. Impressive perhaps, but it is still little more than a tool to realize the programmer’s own creative ideas.

Aaron có thể cầm cọ vẽ và tự vẽ trên vải. Có lẽ ấn tượng, nhưng nó vẫn chỉ là một công cụ để hiện thực hóa ý tưởng sáng tạo của chính lập trình viên.

Simon Colton, the designer of The Painting Fool, is keen to make sure his creation doesn’t attract the same criticism.

Simon Colton, nhà thiết kế của Tranh Kẻ Ngốc, rất muốn đảm bảo tác phẩm của mình không bị chỉ trích như vậy.

 

Unlike earlier ‘artists’ such as Aaron, the Painting Fool only needs minimal direction and can come up with its own concepts by going online for the material.

Không giống như các ‘nghệ sĩ’ trước đó như Aaron, Kẻ ngốc vẽ tranh chỉ cần định hướng tối thiểu và có thể đưa ra các khái niệm của riêng mình bằng cách lên mạng tìm tài liệu.

The software runs its own web searches and trawls through social media sites. It is now beginning to display a kind of imagination too, creating pictures from scratch.

Phần mềm chạy các tìm kiếm trên web của riêng nó và truy tìm thông qua các trang truyền thông xã hội. Bây giờ nó cũng bắt đầu thể hiện một loại trí tưởng tượng, tạo ra những bức tranh từ đầu.

 

One of its original works is a series of fuzzy landscapes, depicting trees and sky. While some might say they have a mechanical look, Colton argues that such reactions arise from people’s double standards towards software-produced and human-produced art.

Một trong những tác phẩm gốc của nó là một loạt các phong cảnh mờ ảo, mô tả cây cối và bầu trời. Trong khi một số người có thể nói rằng chúng có vẻ máy móc, Colton lập luận rằng những phản ứng như vậy phát sinh từ tiêu chuẩn kép của mọi người đối với nghệ thuật do con người sản xuất và phần mềm sản xuất.

After all, he says, consider that the Painting Fool painted the landscapes without referring to a photo. ‘If a child painted a new scene from its head, you’d say it has a certain level of imagination,’ he points out. ‘The same should be true of a machine.Software bugs can also lead to unexpected results.

Rốt cuộc, anh ấy nói, hãy xem xét rằng Kẻ ngu ngốc vẽ tranh đã vẽ phong cảnh mà không đề cập đến một bức ảnh. Ông chỉ ra: “Nếu một đứa trẻ vẽ ra một cảnh mới trong đầu, bạn sẽ nói rằng nó có một mức độ tưởng tượng nhất định. ‘Máy móc cũng vậy.’ Lỗi phần mềm cũng có thể dẫn đến những kết quả không mong muốn.

 

Some of the Painting Fool’s paintings of a chair came out in black and white, thanks to a technical glitch. This gives the work an eerie, ghostlike quality.

  Một số bức tranh vẽ chiếc ghế của Kẻ ngốc hội họa có màu đen và trắng, nhờ một trục trặc kỹ thuật. Điều này mang lại cho tác phẩm một chất lượng ma quái, kỳ lạ.

Human artists like the renowned Ellsworth Kelly are lauded for limiting their color palette – so why should computers be any different?

Các nghệ sĩ con người như Ellsworth Kelly nổi tiếng được khen ngợi vì đã giới hạn bảng màu của họ – vậy tại sao máy tính lại phải khác đi?

Researchers like Colton don’t believe it is right to measure machine creativity directly to that of humans who ‘have had millennia to develop our skills’.

Các nhà nghiên cứu như Colton không tin rằng việc đánh giá trực tiếp khả năng sáng tạo của máy móc so với sức sáng tạo của con người, những người ‘đã có hàng thiên niên kỷ để phát triển các kỹ năng của chúng ta’ là đúng đắn.

 

Others, though, are fascinated by the prospect that a computer might create something as original and subtle as our best artists.

  Tuy nhiên, những người khác bị mê hoặc bởi viễn cảnh rằng một chiếc máy tính có thể tạo ra thứ gì đó độc đáo và tinh tế như những nghệ sĩ giỏi nhất của chúng ta.

So far, only one has come close. Composer David Cope invented a program called Experiments in Musical Intelligence, or EMI. Not only did EMI create compositions in Cope’s style, but also that of the most revered classical composers, including Bach, Chopin, and Mozart.

Cho đến nay, chỉ có một người đã đến gần. Nhà soạn nhạc David Cope đã phát minh ra một chương trình có tên là Thử nghiệm Trí thông minh Âm nhạc, hay EMI. EMI không chỉ tạo ra các tác phẩm theo phong cách của Cope mà còn theo phong cách của các nhà soạn nhạc cổ điển được kính trọng nhất, bao gồm Bach, Chopin và Mozart.

Audiences were moved to tears, and EMI even fooled classical music experts into thinking they were hearing genuine Bach. Not everyone was impressed, however.

Khán giả đã xúc động rơi nước mắt, và EMI thậm chí còn đánh lừa các chuyên gia âm nhạc cổ điển rằng họ đang nghe Bach chính hiệu. Tuy nhiên, không phải ai cũng ấn tượng.

 

Some, such as Wiggins, have blasted Cope’s work as pseudoscience and condemned him for his deliberately vague explanation of how the software worked.

  Một số người, chẳng hạn như Wiggins, đã chỉ trích công trình của Cope là giả khoa học, và lên án anh ta vì đã cố tình giải thích mơ hồ về cách thức hoạt động của phần mềm.

Meanwhile, Douglas Hofstadter of Indiana University said EMI created replicas that still rely completely on the original artist’s creative impulses.

Trong khi đó, Douglas Hofstadter của Đại học Indiana cho biết EMI đã tạo ra các bản sao vẫn hoàn toàn dựa vào sự thôi thúc sáng tạo của nghệ sĩ gốc.

 

When audiences found out the truth they were often outraged with Cope, and one music lover even tried to punch him. Amid such controversy, Cope destroyed EMI’s vital databases.

  Khi khán giả phát hiện ra sự thật, họ thường tỏ ra phẫn nộ với Cope, thậm chí một người yêu nhạc còn định đấm anh. Giữa những tranh cãi như vậy, Cope đã phá hủy cơ sở dữ liệu quan trọng của EMI.

But why did so many people love the music, yet recoil when they discovered how it was composed?

Nhưng tại sao rất nhiều người yêu thích âm nhạc lại chùn bước khi phát hiện ra nó được sáng tác như thế nào?

 

A study by computer scientist David Moffat of Glasgow Caledonian University provides a clue. He asked both expert musicians and non-experts to assess six compositions.

Một nghiên cứu của nhà khoa học máy tính David Moffat của Đại học Glasgow Caledonian cung cấp manh mối. Anh ấy yêu cầu cả nhạc sĩ chuyên nghiệp và không chuyên đánh giá sáu tác phẩm.

 

The participants weren’t told beforehand whether the tunes were composed by humans or computers, but were asked to guess, and then rate how much they liked each one.

Những người tham gia không được cho biết trước liệu các giai điệu được sáng tác bởi con người hay máy tính, nhưng được yêu cầu đoán và sau đó đánh giá mức độ họ thích từng giai điệu.

 

People who thought the composer was a computer tended to dislike the piece more than those who believed it was human.

  Những người nghĩ rằng nhà soạn nhạc là một chiếc máy tính có xu hướng không thích tác phẩm hơn những người tin rằng đó là con người.

This was true even among the experts, who might have been expected to be more objective in their analyses.

Điều này đúng ngay cả với các chuyên gia, những người lẽ ra phải khách quan hơn trong các phân tích của họ.

 

Where does this prejudice come from? Paul Bloom of Yale University has a suggestion: he reckons part of the pleasure we get from art stems from the creative process behind the work. This can give it an irresistible essence’, says Bloom.

Định kiến này đến từ đâu? Paul Bloom của Đại học Yale có một gợi ý: ông cho rằng một phần niềm vui mà chúng ta có được từ nghệ thuật bắt nguồn từ quá trình sáng tạo đằng sau tác phẩm. Điều này có thể mang lại cho nó một ‘bản chất không thể cưỡng lại’, Bloom nói.

Meanwhile, experiments by Justin Kruger of New York University have shown that people’s enjoyment of an artwork increases if they think more time and effort was needed to create it.

Trong khi đó, các thí nghiệm của Justin Kruger thuộc Đại học New York đã chỉ ra rằng sự thích thú của mọi người đối với một tác phẩm nghệ thuật sẽ tăng lên nếu họ nghĩ rằng cần nhiều thời gian và công sức hơn để tạo ra nó.

 

Similarly, Colton thinks that when people experience art, they wonder what the artist might have been thinking or what the artist is trying to tell them.

Tương tự như vậy, Colton nghĩ rằng khi mọi người trải nghiệm nghệ thuật, họ tự hỏi người nghệ sĩ có thể đã nghĩ gì hoặc người nghệ sĩ đang cố nói với họ điều gì.

It seems obvious, therefore, that with computers producing art, this speculation is cut short – there’s nothing to explore.

Do đó, có vẻ hiển nhiên là với máy tính tạo ra tác phẩm nghệ thuật, suy đoán này bị cắt ngắn – không có gì để khám phá.

 

But as technology becomes increasingly complex, finding those greater depths in computer art could become possible.

Nhưng khi công nghệ ngày càng trở nên phức tạp, việc tìm kiếm những chiều sâu hơn trong nghệ thuật máy tính có thể trở nên khả thi.

This is precisely why Colton asks the Painting Fool to tap into online social networks for its inspiration: hopefully this way it will choose themes that will already be meaningful to us.

Đây chính là lý do tại sao Colton yêu cầu Kẻ ngốc vẽ tranh khai thác các mạng xã hội trực tuyến để lấy cảm hứng: hy vọng bằng cách này, nó sẽ chọn những chủ đề vốn đã có ý nghĩa với chúng ta.

 

Học thêm các bài dịch sách Cambridge IELTS mới nhất 👇👇👇

Case Study: Tourism New Zealand website – Cambridge IELTS 13, Test 1

Why being bored is stimulating – and useful, too – Cambridge IELTS 13, Test 1