Roman Tunnels – Cambridge IELTS 16, Test 4

Roman Tunnels – Cambridge IELTS 16, Test 4

 

Đường hầm La Mã

The Romans, who once controlled areas of Europe, North Africa, and Asia Minor, adopted the construction techniques of other civilizations to build tunnels in their territories

Người La Mã, từng kiểm soát các khu vực ở Châu Âu, Bắc Phi và Tiểu Á, đã áp dụng các kỹ thuật xây dựng của các nền văn minh khác để xây dựng các đường hầm trong lãnh thổ của họ

The Persians, who lived in present-day Iran, were one of the first civilizations to build tunnels that provided a reliable supply of water to human settlements in dry areas.

Người Ba Tư, sống ở Iran ngày nay, là một trong những nền văn minh đầu tiên xây dựng các đường hầm cung cấp nguồn nước đáng tin cậy cho các khu định cư của con người ở những vùng khô hạn.

In the early first millennium BCE, they introduced the qanat method of tunnel construction, which consisted of placing posts over a hill in a straight line, to ensure that the tunnel kept to its route, and then digging vertical shafts down into the ground at regular intervals.

Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, họ đã giới thiệu phương pháp qanat để xây dựng đường hầm, bao gồm việc đặt các cột trên một ngọn đồi theo một đường thẳng, để đảm bảo rằng đường hầm đi đúng lộ trình của nó, sau đó đào các trục thẳng đứng xuống lòng đất một cách đều đặn.

Underground, workers removed the earth from between the ends of the shafts, creating a tunnel. The excavated soil was taken up to the surface using the shafts, which also provided ventilation during the work.

Dưới lòng đất, các công nhân đã đào đất từ ​​giữa các đầu trục, tạo ra một đường hầm. Đất đào lên được đưa lên bề mặt bằng các trục, giúp thông gió trong quá trình làm việc.

Once the tunnel was completed, it allowed water to flow from the top of a hillside down towards a canal, which supplied water for human use. Remarkably, some qanats built by the Persians 2,700 years ago are still in use today.

Khi đường hầm được hoàn thành, nó cho phép nước chảy từ đỉnh sườn đồi xuống một con kênh, nơi cung cấp nước cho con người sử dụng. Đáng chú ý, một số qanats do người Ba Tư xây dựng cách đây 2.700 năm vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.

They later passed on their knowledge to the Romans, who also used the qanat method to construct water-supply tunnels for agriculture.

Sau đó, họ đã truyền lại kiến thức của mình cho người La Mã, những người cũng sử dụng phương pháp qanat để xây dựng các đường hầm cung cấp nước cho nông nghiệp.

Roma qanat tunnels were constructed with vertical shafts dug at intervals of between 30 and 60 meters. The shafts were equipped with handholds and footholds to help those climbing in and out of them and were covered with a wooden or stone lid.

Các đường hầm Roma qanat được xây dựng với các trục thẳng đứng được đào cách nhau từ 30 đến 60 mét. Các trục được trang bị tay vịn và chỗ đứng để giúp những người trèo vào và ra khỏi chúng và được đậy bằng nắp gỗ hoặc đá.

To ensure that the shafts were vertical, Romans hung a plumb line from a rod placed across the top of each shaft and made sure that the weight at the end of it hung in the center of the shaft. Plumb lines were also used to measure the depth of the shaft and to determine the slope of the tunnel.

Để đảm bảo rằng các trục thẳng đứng, người La Mã đã treo một dây dọi từ một thanh đặt ngang qua đầu mỗi trục và đảm bảo rằng quả nặng ở đầu của nó được treo ở giữa trục. Các dây dọi cũng được sử dụng để đo độ sâu của trục và xác định độ dốc của đường hầm.

The 5.6-kilometer-long Claudius tunnel, built in 41 CE to drain the Fucine Lake in central Italy, had shafts that were up to 122 meters deep, took 11 years to build, and involved approximately 30,000 workers.

Đường hầm Claudius dài 5,6 km, được xây dựng vào năm 41 sau Công nguyên để thoát nước cho Hồ Fucine ở miền trung nước Ý, có các trục sâu tới 122 mét, mất 11 năm để xây dựng và có sự tham gia của khoảng 30.000 công nhân.

By the 6th century BCE, a second method of tunnel construction appeared called the counter-excavation method, in which the tunnel was constructed from both ends.

Đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, một phương pháp xây dựng đường hầm thứ hai xuất hiện được gọi là phương pháp đào ngược chiều, trong đó đường hầm được xây dựng từ cả hai đầu.

It was used to cut through high mountains when the qanat method was not a practical alternative. This method required greater planning and advanced knowledge of surveying, mathematics, and geometry as both ends of a tunnel had to meet correctly at the center of the mountain.

  Nó được sử dụng để cắt qua những ngọn núi cao khi phương pháp qanat không phải là một giải pháp thay thế thực tế. Phương pháp này yêu cầu lập kế hoạch kỹ lưỡng hơn và kiến thức nâng cao về khảo sát, toán học và hình học vì cả hai đầu của đường hầm phải gặp nhau chính xác ở tâm núi.

Adjustments to the direction of the tunnel also had to be made whenever builders encountered geological problems or when it deviated from its set path.

Việc điều chỉnh hướng của đường hầm cũng phải được thực hiện bất cứ khi nào các nhà xây dựng gặp phải các vấn đề về địa chất hoặc khi nó đi chệch khỏi đường đã định.

They constantly checked the tunnel’s advancing direction, for example, by looking back at the light that penetrated through the tunnel mouth, and made corrections whenever necessary. Large deviations could happen, and they could result in one end of the tunnel not being usable.

  Họ liên tục kiểm tra hướng tiến của đường hầm, ví dụ, bằng cách nhìn lại ánh sáng xuyên qua miệng đường hầm và điều chỉnh bất cứ khi nào cần thiết. Những sai lệch lớn có thể xảy ra và chúng có thể dẫn đến việc một đầu của đường hầm không thể sử dụng được.

An inscription written on the side of a 428-meter tunnel, built by the Romans as part of the Saldae aqueduct system in modern-day Algeria, describes how the two teams of builders missed each other in the mountain and how the later construction of a lateral link between both corridors corrected the initial error.

Một dòng chữ được viết trên mặt của đường hầm dài 428 mét, do người La Mã xây dựng như một phần của hệ thống dẫn nước Saldae ở Algeria ngày nay, mô tả việc hai đội thợ xây đã bỏ lỡ nhau trong núi và quá trình xây dựng sau này của một đường hầm như thế nào. liên kết bên giữa cả hai hành lang đã sửa lỗi ban đầu.

The Romans dug tunnels for their roads using the counter-excavation method, whenever they encountered obstacles such as hills or mountains that were too high for roads to pass over.

Người La Mã đào đường hầm bằng phương pháp đào ngược, bất cứ khi nào họ gặp chướng ngại vật như đồi hoặc núi quá cao để đường đi qua.

An example is the 37-meter-long, 6-meter-high, Furlo Pass Tunnel built in Italy in 69-79 CE. Remarkably, a modern road still uses this tunnel today.

  Một ví dụ là Đường hầm đèo Furlo dài 37 mét, cao 6 mét được xây dựng ở Ý vào năm 69-79 CN. Đáng chú ý, ngày nay một con đường hiện đại vẫn sử dụng đường hầm này.

Tunnels were also built for mineral extraction. Miners would locate a mineral vein and then pursue it with shafts and tunnels underground. Traces of such tunnels used to mine gold can still be found at the Dolaucothi mines in Wales.

Các đường hầm cũng được xây dựng để khai thác khoáng sản. Những người khai thác sẽ xác định vị trí của một mạch khoáng sản và sau đó theo đuổi nó bằng các trục và đường hầm dưới lòng đất. Dấu vết của những đường hầm như vậy được sử dụng để khai thác vàng vẫn có thể được tìm thấy tại các mỏ Dolaucothi ở Wales.

When the sole purpose of a tunnel was mineral extraction, construction required less planning, as the tunnel route was determined by the mineral vein.

Khi mục đích duy nhất của đường hầm là khai thác khoáng sản, việc xây dựng ít cần lập kế hoạch hơn, vì tuyến đường hầm được xác định bởi mạch khoáng sản.

Roman tunnel projects were carefully planned and carried out. The length of time it took to construct a tunnel depended on the method being used and the type of rock being excavated.

Các dự án đường hầm của người La Mã đã được lên kế hoạch và thực hiện cẩn thận. Khoảng thời gian cần thiết để xây dựng một đường hầm phụ thuộc vào phương pháp được sử dụng và loại đá được đào.

The qanat construction method was usually faster than the counter-excavation method as it was more straightforward.

Phương pháp xây dựng qanat thường nhanh hơn phương pháp đào ngược vì nó đơn giản hơn.

This was because the mountain could be excavated not only from the tunnel mouths but also from shafts. The type of rock could also influence construction times. When the rock was hard, the Romans employed a technique called fire quenching which consisted of heating the rock with fire, and then suddenly cooling it with cold water so that it would crack.

Điều này là do ngọn núi có thể được đào không chỉ từ miệng đường hầm mà còn từ các trục. Loại đá cũng có thể ảnh hưởng đến thời gian xây dựng. Khi đá cứng, người La Mã sử dụng một kỹ thuật gọi là dập lửa bao gồm đốt nóng đá bằng lửa, sau đó làm lạnh đột ngột bằng nước lạnh để đá nứt ra.

 

Progress through hard rock could be very slow, and it was not uncommon for tunnels to take years, if not decades, to be built.

Quá trình xuyên qua đá cứng có thể rất chậm và không có gì lạ khi các đường hầm phải mất nhiều năm, nếu không muốn nói là hàng thập kỷ, mới được xây dựng.

Construction marks left on a Roman tunnel in Bologna show that the rate of advance through solid rock was 30 centimeters per day. In contrast, the rate of advance of the Claudius tunnel can be calculated at 1.4 meters per day.

Dấu vết xây dựng để lại trên một đường hầm La Mã ở Bologna cho thấy tốc độ tiến qua đá rắn là 30 cm mỗi ngày. Ngược lại, tốc độ tiến của đường hầm Claudius có thể được tính là 1,4 mét mỗi ngày.

 

Most tunnels had inscriptions showing the names of patrons who ordered the construction and sometimes the name of the architect.

Hầu hết các đường hầm đều có dòng chữ ghi tên của những người bảo trợ đã ra lệnh xây dựng và đôi khi là tên của kiến ​​trúc sư.

For example, the 1.4-kilometer Çevlik tunnel in Turkey, built to divert the floodwater threatening the harbor of the ancient city of Seleuceia Pieria, had inscriptions on the entrance, still visible today, that also indicates that the tunnel was started in 69 CE and was completed in 81 CE.

Ví dụ, đường hầm Çevlik dài 1,4 km ở Thổ Nhĩ Kỳ, được xây dựng để chuyển dòng nước lũ đang đe dọa bến cảng của thành phố cổ Seleucia Pieria, có dòng chữ trên lối vào, vẫn còn được nhìn thấy cho đến ngày nay, điều đó cũng cho thấy rằng đường hầm đã được bắt đầu vào năm 69 CN và được hoàn thành vào năm 81 CN.

 

Học thêm các bài dịch sách Cambridge IELTS mới nhất 👇👇👇

Plant ‘thermometer’ triggers springtime growth by measuring night-time heat – Cambridge IELTS 16, Test 3

Climate Change Reveals Ancient Artefacts In Norway’s Glaciers – Cambridge IELTS 16, Test 3