Having A Laugh – Cambridge IELTS 15, Test 2

Having A Laugh

Cười

The findings of psychological scientists reveal the importance of humor

Phát hiện của các nhà khoa học tâm lý tiết lộ tầm quan trọng của sự hài hước

Humans start developing a sense of humor as early as six weeks old when babies begin to laugh and smile in response to stimuli.

Con người bắt đầu phát triển khiếu hài hước ngay từ sáu tuần tuổi, khi em bé bắt đầu cười và mỉm cười để đáp lại các kích thích.

 

Laughter is universal across all human cultures and even exists in some form in rats, chimps, and bonobos.

  Tiếng cười phổ biến trên tất cả các nền văn hóa của loài người và thậm chí còn tồn tại dưới một số hình thức ở chuột, tinh tinh và tinh tinh lùn.

 

Like other human emotions and expressions, laughter and humor psychological scientists with rich resources for studying human psychology, ranging from the development of language to the neuroscience of social perception.

Giống như những cảm xúc và cách diễn đạt khác của con người, tiếng cười và sự hài hước là các nhà khoa học tâm lý có nguồn tài nguyên phong phú để nghiên cứu tâm lý con người, từ sự phát triển của ngôn ngữ đến khoa học thần kinh về nhận thức xã hội.

Theories focusing on the evolution of laughter point to it as an important adaptation for social communication. Take, for example, the recorded laughter in TV comedy shows.

Các lý thuyết tập trung vào sự tiến hóa của tiếng cười chỉ ra rằng nó là một sự thích ứng quan trọng cho giao tiếp xã hội. Lấy ví dụ, tiếng cười được ghi lại trong các chương trình hài kịch trên TV.

 

Back in 1950, US sound engineer Charley Douglass hated dealing with the unpredictable laughter of live audiences, so started recording his own ‘laugh tracks’. These were intended to help people at home feel like they were in a social situation, such as a crowded theatre.

  Quay trở lại năm 1950, kỹ sư âm thanh người Mỹ Charley Douglass ghét phải đối mặt với tiếng cười khó đoán của khán giả trực tiếp nên đã bắt đầu ghi âm ‘các bản nhạc gây cười’ của riêng mình. Những điều này nhằm giúp những người ở nhà cảm thấy như họ đang ở trong một tình huống xã hội, chẳng hạn như một nhà hát đông đúc.

Douglass even recorded various types of laughter, as well as mixtures of laughter from men, women, and children. In doing so, he picked up on a quality of laughter that is now interesting to researchers: a simple ‘haha’ communicates a remarkable amount of socially relevant information.

Douglass thậm chí còn ghi lại nhiều kiểu cười khác nhau, cũng như sự pha trộn giữa tiếng cười của đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Khi làm như vậy, anh ấy đã thu được một chất lượng tiếng cười mà ngày nay các nhà nghiên cứu đang quan tâm: một tiếng ‘haha’ đơn giản truyền đạt một lượng đáng kể thông tin liên quan đến xã hội.

In one study conducted in 2016, samples of laughter from pairs of English-speaking students were recorded at the University of California, Santa Cruz.

Trong một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2016, các mẫu tiếng cười của các cặp sinh viên nói tiếng Anh đã được ghi lại tại Đại học California, Santa Cruz.

 

A team made up of more than 30 psychological scientists, anthropologists, and biologists then played these recordings to listeners from 24 diverse societies, from indigenous tribes in New Guinea to city-dwellers in India and Europe.

Sau đó, một nhóm gồm hơn 30 nhà khoa học tâm lý, nhân chủng họcsinh vật học đã phát đoạn ghi âm này cho thính giả từ 24 xã hội khác nhau, từ các bộ lạc bản địa ở New Guinea đến cư dân thành phố ở Ấn Độ và Châu Âu.

Participants were asked whether they thought the people laughing were friends or strangers. On average, the results were remarkably consistent: worldwide, people’s guesses were correct approximately 60% of the time.

Những người tham gia được hỏi liệu họ nghĩ những người đang cười là bạn bè hay người lạ. Tính trung bình, kết quả rất nhất quán: trên toàn thế giới, dự đoán của mọi người đúng khoảng 60% thời gian.

 

Researchers have also found that different types of laughter serve as codes to complex human social hierarchies.

Các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện ra rằng các kiểu cười khác nhau đóng vai trò là mật mã cho các hệ thống phân cấp xã hội phức tạp của con người.

 

A team led by Christopher Oveis from the University of California, San Diego, found that high-status individuals had different laughs from low-status individuals and that strangers’ judgments of an individual’s social status were influenced by the dominant or submissive quality of their laughter.

  Một nhóm nghiên cứu do Christopher Oveis từ Đại học California, San Diego đứng đầu đã phát hiện ra rằng những người có địa vị cao có cách cười khác với những người có địa vị thấp, và những đánh giá của người lạ về địa vị xã hội của một cá nhân bị ảnh hưởng bởi phẩm chất chi phối hoặc phục tùng của họ. tiếng cười.

In their study, 48 male college students were randomly assigned to groups of four, with each group composed of two low-status members, who had just joined their college fraternity group, and two high-status members, the older student took a turn being teased by the others, involving the use of mildly insulting nicknames.

Trong nghiên cứu của họ, 48 nam sinh viên đại học được phân ngẫu nhiên vào các nhóm bốn người, với mỗi nhóm gồm hai thành viên có địa vị thấp, vừa mới gia nhập nhóm huynh đệ đại học của họ, và hai thành viên có địa vị cao, sinh viên lớn tuổi hơn đã lần lượt trở thành bị những người khác trêu chọc, liên quan đến việc sử dụng các biệt danh xúc phạm nhẹ.

 

Analysis revealed that, as expected, high-status individuals produced more dominant laughs and fewer submissive laughs relative to the low-status individuals.

Phân tích tiết lộ rằng, đúng như dự đoán, những cá nhân có địa vị cao tạo ra nhiều tiếng cười thống trị hơn và ít tiếng cười phục tùng hơn so với những cá nhân có địa vị thấp.

Meanwhile, low-status individuals were more likely to change their laughter based on their position of power; that is, the newcomers produced more dominant laughs when they were in the ‘powerful’ role of teasers. Dominant laughter was higher in pitch, louder, and more variable in tone than submissive laughter.

Trong khi đó, những cá nhân có địa vị thấp có nhiều khả năng thay đổi tiếng cười của họ dựa trên vị trí quyền lực của họ; nghĩa là, những người mới tạo ra nhiều tiếng cười vượt trội hơn khi họ đóng vai trò ‘quyền lực’ trong các đoạn giới thiệu. Tiếng cười thống trị cao hơn, to hơn và có nhiều giai điệu hơn so với tiếng cười phục tùng.

A random group of volunteers then listened to an equal number of dominant and submissive laughs from both the high- and low-status individuals and were asked to estimate the social status of the laughter.

Sau đó, một nhóm tình nguyện viên ngẫu nhiên được nghe một số lượng bằng nhau tiếng cười thống trị và phục tùng từ cả những người có địa vị cao và thấp, và được yêu cầu ước tính địa vị xã hội của tiếng cười đó.

 

In line with predictions, laughers producing dominant laughs were perceived to be significantly higher in status than laughers producing submissive laughs.

Theo dự đoán, những người cười tạo ra tiếng cười thống trị được coi là có địa vị cao hơn đáng kể so với những người cười tạo ra tiếng cười phục tùng.

‘This was particularly true for low-status individuals, who were rated as significantly higher in status when displaying a dominant versus submissive laugh,’ Oveis and colleagues note. ‘Thus, by strategically displaying more dominant laughter when the context allows, low-status individuals may achieve higher status in the eyes of others.’

Oveis và các đồng nghiệp lưu ý: “Điều này đặc biệt đúng đối với những cá nhân có địa vị thấp, những người được đánh giá là có địa vị cao hơn đáng kể khi thể hiện tiếng cười thống trị so với điệu cười phục tùng. ‘Do đó, bằng cách thể hiện một cách có chiến lược tiếng cười thống trị hơn khi bối cảnh cho phép, những cá nhân có địa vị thấp có thể đạt được địa vị cao hơn trong mắt người khác.’

 

However, high-status individuals were rated as high-status whether they produced their natural dominant laugh or tried to do a submissive one.

 

Tuy nhiên, những cá nhân có địa vị cao được đánh giá là có địa vị cao cho dù họ tạo ra tiếng cười thống trị tự nhiên hay cố gắng thực hiện điệu cười phục tùng.

Another study, conducted by David Cheng and Lu Wang of the Australian National University, was based on the hypothesis that humor might provide a respite from tedious situations in the workplace.

Một nghiên cứu khác, được thực hiện bởi David Cheng và Lu Wang của Đại học Quốc gia Úc, dựa trên giả thuyết rằng sự hài hước có thể mang lại thời gian nghỉ ngơi sau những tình huống tẻ nhạt tại nơi làm việc.

 

This ‘mental break’ might facilitate the replenishment of mental resources. To test this theory, the researchers recruited 74 business students, ostensibly for an experiment on perception.

Sự ‘nghỉ ngơi tinh thần’ này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc bổ sung các nguồn lực tinh thần. Để kiểm tra lý thuyết này, các nhà nghiên cứu đã tuyển dụng 74 sinh viên kinh doanh, bề ngoài là cho một thí nghiệm về nhận thức.

First, the students performed a tedious task in which they had to cross out every instance of the letter ‘e’ over two pages of text.

Đầu tiên, các sinh viên thực hiện một nhiệm vụ tẻ nhạt, trong đó họ phải gạch bỏ mọi trường hợp của chữ ‘e’ trên hai trang văn bản.

 

The students then were randomly assigned to watch a video clip eliciting either humor, contentment, or neutral feelings.

Sau đó, các sinh viên được chỉ định ngẫu nhiên để xem một video clip khơi gợi cảm giác hài hước, hài lòng hoặc bình thường.

Some watched a clip of the BBC comedy Mr. Bean, others a relaxing scene with dolphins swimming in the ocean, and others a factual video about the management profession.

Một số xem một đoạn phim hài Mr. Bean của đài BBC, những người khác xem một cảnh thư giãn với những chú cá heo bơi trong đại dương, và những người khác xem một video thực tế về nghề quản lý.

The students then completed a task requiring persistence in which they were asked to guess the potential performance of employees based on provided profiles and were told that making 10 correct assessments in a row would lead to a win.

Sau đó, các sinh viên đã hoàn thành một nhiệm vụ đòi hỏi sự kiên trì, trong đó họ được yêu cầu đoán hiệu suất tiềm năng của nhân viên dựa trên hồ sơ được cung cấp và được thông báo rằng thực hiện 10 đánh giá đúng liên tiếp sẽ dẫn đến chiến thắng.

 

However, the software was programmed such that is was nearly impossible to achieve 10 consecutive correct answers. Participants were allowed to quit the task at any point.

Tuy nhiên, phần mềm đã được lập trình đến mức gần như không thể đạt được 10 câu trả lời đúng liên tiếp. Những người tham gia được phép bỏ nhiệm vụ bất cứ lúc nào.

Students who had watched the Mr. Bean video ended up spending significantly more time working on the task, making twice as many predictions as the other two groups.

Những sinh viên đã xem video Mr. Bean cuối cùng đã dành nhiều thời gian hơn để làm bài, đưa ra số dự đoán gấp đôi so với hai nhóm còn lại.

Cheng and Wang then replicated these results in a second study, during which they had participants complete long multiplication questions by hand.

Cheng và Wang sau đó nhân rộng những kết quả này trong một nghiên cứu thứ hai, trong đó họ yêu cầu những người tham gia hoàn thành các câu hỏi phép nhân dài bằng tay.

 

Again, participants who watched the humorous video spent significantly more time working on this tedious task and completed more questions correctly than the students in either of the other groups.

Một lần nữa, những người tham gia xem video hài hước đã dành nhiều thời gian hơn đáng kể để làm nhiệm vụ tẻ nhạt này và hoàn thành nhiều câu hỏi đúng hơn so với những sinh viên ở cả hai nhóm còn lại.

‘Although humor has been found to help relieve stress and facilitate social relationships, the traditional view of task performance implies that individuals should avoid things such as humour that may distract them from the accomplishment of task goals,’ Cheng and Wang conclude. ‘We suggest that humour is not only enjoyable but more importantly, energizing.’

Cheng và Wang kết luận: “Mặc dù sự hài hước đã được chứng minh là giúp giảm căng thẳng và tạo điều kiện thuận lợi cho các mối quan hệ xã hội, nhưng quan điểm truyền thống về việc thực hiện nhiệm vụ ngụ ý rằng các cá nhân nên tránh những thứ chẳng hạn như sự hài hước có thể khiến họ mất tập trung vào việc hoàn thành các mục tiêu của nhiệm vụ”. ‘Chúng tôi cho rằng sự hài hước không chỉ thú vị mà quan trọng hơn là tiếp thêm sinh lực.’

 

Học thêm các bài dịch sách Cambridge IELTS mới nhất 👇👇👇

Should We Try To Bring Extinct Species Back To Life? – Cambridge IELTS 15, Test 2

Could Urban Engineers Learn From Dance? – Cambridge IELTS 15, Test 2