The Thylacine – Cambridge IELTS 17, Test 3

The Thylacine – Cambridge IELTS 17, Test 3

 

Chó Sói Túi

The extinct thylacine, also known as the Tasmanian tiger, was a marsupial* that bore a superficial resemblance to a dog.

Loài thú có túi đã tuyệt chủng, còn được gọi là hổ Tasmania, là một loài thú có túi* có bề ngoài giống chó.

Its most distinguishing feature was the 13-19 dark brown stripes over its back, beginning at the rear of the body and extending onto the tail. The thylacine’s average nose-to-tail length for adult males was 162.6 cm, compared to 153.7 cm for females.

Đặc điểm nổi bật nhất của nó là có 13-19 sọc màu nâu sẫm trên lưng, bắt đầu ở phía sau cơ thể và kéo dài đến đuôi. Chiều dài từ mũi đến đuôi trung bình của chó sói túi đối với con đực trưởng thành là 162,6 cm, so với 153,7 cm đối với con cái.

The thylacine appeared to occupy most types of terrain except dense rainforest, with open eucalyptus forest thought to be its prime habitat.

ói túi dường như chiếm hầu hết các loại địa hình ngoại trừ rừng nhiệt đới rậm rạp, với rừng bạch đàn lộ thiên được cho là môi trường sống chính của chúng.

In terms of feeding, it was exclusively carnivorous, and its stomach was muscular with an ability to distend so that it could eat large amounts of food at one time, probably an adaptation to compensate for long periods when hunting was unsuccessful and food scarce.

Liên quan đến mặt kiếm ăn, nó chỉ là loài ăn thịt và dạ dày của nó rất vạm vỡ với khả năng căng ra để có thể ăn một lượng lớn thức ăn cùng một lúc, có lẽ là sự thích nghi để bù đắp cho thời gian dài khi việc săn bắn không thành công và thức ăn khan hiếm.

The thylacine was not a fast runner and probably caught its prey by exhausting it during a long pursuit.

 Chó sói túi không phải là loài chạy nhanh và có lẽ đã bắt được con mồi bằng cách làm nó kiệt sức trong một cuộc truy đuổi kéo dài.

During long-distance chases, thylacines were likely to have relied more on scent than any other sense. They emerged to hunt during the evening, night, and early morning and tended to retreat to the hills and forest for shelter during the day.

Trong các cuộc rượt đuổi đường dài, chó sói túi có khả năng dựa vào mùi hương nhiều hơn bất kỳ giác quan nào khác. Chúng nổi lên để săn mồi vào buổi tối, đêm và sáng sớm và có xu hướng rút lui vào các ngọn đồi và rừng để trú ẩn vào ban ngày.

Despite the common name ‘tiger’, the thylacine had a shy, nervous temperament. Although mainly nocturnal, it was sighted moving during the day and some individuals were even recorded basking in the sun.

  Mặc dù có tên chung là ‘hổ’, chó sói túi có tính khí nhút nhát và hay lo lắng. Mặc dù chủ yếu sống về đêm, nhưng người ta thấy nó di chuyển vào ban ngày và một số cá thể thậm chí còn được ghi nhận là đang phơi nắng.

The thylacine had an extended breeding season from winter to spring, with indications that some breeding took place throughout the year. The thylacine, like all marsupials, was tiny and hairless when born.

Chó sói túi có mùa sinh sản kéo dài từ mùa đông sang mùa xuân, với dấu hiệu cho thấy một số hoạt động sinh sản diễn ra quanh năm. Chó sói túi, giống như tất cả các loài thú có túi, rất nhỏ và không có lông khi mới sinh ra.

Newborns crawled into the pouch on the belly of their mother and attached themselves to one of the four teats, remaining there for up to three months.

Trẻ sơ sinh chui vào túi trên bụng mẹ và gắn mình vào một trong bốn núm vú, ở đó cho đến ba tháng.

When old enough to leave the pouch, the young stayed in a lair such as a deep rocky cave, well-hidden nest, or hollow log, whilst the mother hunted.

Khi đủ lớn để rời khỏi túi, con non ở trong hang ổ như hang đá sâu, tổ được giấu kỹ hoặc khúc gỗ rỗng, trong khi con mẹ đi săn.

Approximately 4,000 years ago, thylacine was widespread throughout New Guinea and most of mainland Australia, as well as the island of Tasmania.

Khoảng 4.000 năm trước, chó sói túi đã lan rộng khắp New Guinea và hầu hết lục địa Úc, cũng như đảo Tasmania.

The most recent, well-dated occurrence of a thylacine on the mainland is a carbon-dated fossil from Murray Cave in Western Australia, which is around 3,100 years old.

Lần xuất hiện gần đây nhất, có niên đại rõ ràng của một con chó sói có túi trên đất liền là một hóa thạch có niên đại bằng carbon từ Hang Murray ở Tây Úc, khoảng 3.100 năm tuổi.

Its extinction coincided closely with the arrival of wild dogs called dingoes in Australia and a similar predator in New Guinea. Dingoes never reached Tasmania, and most scientists see this as the main reason for thylacine’s survival there.

Sự tuyệt chủng của nó trùng hợp chặt chẽ với sự xuất hiện của loài chó hoang gọi là dingoes ở Úc và một loài săn mồi tương tự ở New Guinea. Dingoes không bao giờ đến Tasmania, và hầu hết các nhà khoa học coi đây là lý do chính cho sự sống sót của thylacine ở đó.

The dramatic decline of thylacine in Tasmania, which began in the 1830s and continued for a century, is generally attributed to the relentless efforts of sheep farmers and bounty hunters** with shotguns.

Sự suy giảm đáng kể của chó sói túi ở Tasmania, bắt đầu từ những năm 1830 và tiếp tục trong một thế kỷ, thường được cho là những nỗ lực không ngừng của những người chăn nuôi cừu và thợ săn tiền thưởng** bằng súng ngắn.

While this determined campaign undoubtedly played a large part, it is likely that various other factors also contributed to the decline and eventual extinction of the species.

Mặc dù chiến dịch quyết tâm này chắc chắn đóng một vai trò quan trọng, nhưng có khả năng nhiều yếu tố khác cũng góp phần vào sự suy giảm và tuyệt chủng cuối cùng của loài này.

These include competition with wild dogs introduced by European settlers, loss of habitat along with the disappearance of prey species, and a distemper-like disease that may also have affected thylacine.

Chúng bao gồm sự cạnh tranh với những con chó hoang do những người định cư châu Âu giới thiệu, mất môi trường sống cùng với sự biến mất của các loài con mồi và một căn bệnh giống như bệnh phân tán cũng có thể đã nh hưởng đến chó sói túi.

There was only one successful attempt to breed a thylacine in captivity, at Melbourne Zoo in 1899. This was despite the large numbers that went through some zoos, particularly London Zoo and Tasmania’s Hobart Zoo.

Chỉ có một nỗ lực thành công trong việc nhân giống chó sói túi trong điều kiện nuôi nhốt, tại Sở thú Melbourne vào năm 1899. Điều này xảy ra bất chấp một số lượng lớn đã đi qua một số sở thú, đặc biệt là Sở thú London và Sở thú Hobart của Tasmania.

The famous naturalist John Gould foresaw the thylacine’s demise when he published his Mammals of Australia between 1848 and 1863, writing, ‘The numbers of this singular animal will speedily diminish, extermination will have its full sway, and it will then, like the wolf of England and Scotland, be recorded as an animal of the past.’

Nhà tự nhiên học nổi tiếng John Gould đã thấy trước sự diệt vong của thú có túi khi ông xuất bản tác phẩm Động vật có vú ở Úc từ năm 1848 đến năm 1863, viết rằng, “Số lượng của loài động vật kỳ dị này sẽ nhanh chóng giảm đi, sự hủy diệt sẽ hoàn toàn ảnh hưởng, và sau đó, giống như loài sói Anh và Scotland, được ghi nhận là động vật của quá khứ.’

However, there seems to have been little public pressure to preserve the thylacine, nor was much concern expressed by scientists at the decline of this species in the decades that followed.

Tuy nhiên, dường như có rất ít áp lực của công chúng đối với việc bảo tồn chó sói túi, các nhà khoa học cũng không bày tỏ nhiều lo ngại về sự suy giảm của loài này trong những thập kỷ sau đó.

A notable exception was T.T. Flynn, Professor of Biology at the University of Tasmania. In 1914, he was sufficiently concerned about the scarcity of thylacine to suggest that some should be captured and placed on a small island.

Một ngoại lệ đáng chú ý là T.T. Flynn, Giáo sư Sinh học tại Đại học Tasmania. Năm 1914, ông lo ngại về sự khan hiếm của chó sói túi nên đề xuất rằng nên bắt một số con và đặt trên một hòn đảo nhỏ.

But it was not until 1929, with the species on the very edge of extinction, that Tasmania’s Animals and Birds Protection Board passed a motion protecting thylacines only for the month of December, which was thought to be their prime breeding season.

Nhưng phải đến năm 1929, với việc loài này đang trên bờ vực tuyệt chủng, Ban Bảo vệ Chim và Động vật của Tasmania mới thông qua một đề nghị chỉ bảo vệ thú có túi có túi trong tháng 12, được cho là mùa sinh sản chính của chúng.

The last known wild thylacine to be killed was shot by a farmer in the northeast of Tasmania in 1930, leaving just captive specimens.

Con chó sói hoang dã cuối cùng được biết đến bị giết đã bị một nông dân ở phía đông bắc Tasmania bắn vào năm 1930, chỉ để lại những mẫu vật nuôi nhốt.

Official protection of the species by the Tasmanian government was introduced in July 1936, 59 days before the last known individual died in Hobart Zoo on 7th September 1936.

Chính phủ Tasmania chính thức bảo vệ loài này vào tháng 7 năm 1936, 59 ngày trước khi cá thể cuối cùng được biết đến qua đời ở Sở thú Hobart vào ngày 7 tháng 9 năm 1936.

There have been numerous expeditions and searches for thylacine over the years, none of which has produced definitive evidence that thylacines still exist. The species was declared extinct by the Tasmanian government in 1986.

Đã có rất nhiều cuộc thám hiểm và tìm kiếm thú có túi trong nhiều năm, không có cuộc thám hiểm nào trong số đó đưa ra bằng chứng chắc chắn rằng thú có túi vẫn còn tồn tại. Loài này đã bị chính phủ Tasmania tuyên bố là tuyệt chủng vào năm 1986.

* marsupial: a mammal, such as a kangaroo, whose young are born incompletely developed and are typically carried and suckled in a pouch on the mother’s belly

* thú có túi: một loài động vật có vú, chẳng hạn như chuột túi, có con non được sinh ra chưa phát triển đầy đủ và thường được bế và bú trong túi trên bụng mẹ

**bounty hunters: people who are paid a reward for killing a wild animal.

**thợ săn tiền thưởng: những người được trả công khi giết một con thú hoang.

 

Học thêm các bài Cambridge IELTS  mới nhất 👇👇👇

Insight Or Evolution? – Cambridge IELTS 17, Test 2

A Second Attempt At Domesticating The Tomato – Cambridge IELTS 17, Test 2