Cutty Sark: the fastest sailing ship of all time – Cambridge IELTS 13, Test 4

Cutty Sark: the fastest sailing ship of all time

Cutty Sark: tàu buồm nhanh nhất mọi thời đại

The nineteenth century was a period of great technological development in Britain, and for shipping the major changes were from wind to steam power, and from wood to iron and steel.

Thế kỷ 19 là thời kỳ phát triển công nghệ vượt bậc ở Anh, và đối với ngành vận tải biển, những thay đổi lớn là từ năng lượng gió sang năng lượng hơi nước, từ gỗ sang sắt và thép.

The fastest commercial sailing vessels of all time were clippers, three-masted ships built to transport goods around the world, although some also took passengers.

Những chiếc thuyền buồm thương mại nhanh nhất mọi thời đại là những chiếc thuyền ba cột buồm được chế tạo để vận chuyển hàng hóa đi khắp thế giới, mặc dù một số cũng chở hành khách.

 

From the 1840s until 1869, when the Suez Canal opened and steam propulsion was replacing sail, clippers dominated world trade.

Từ những năm 1840 cho đến năm 1869, khi Kênh đào Suez mở cửa và động cơ đẩy hơi nước thay thế cánh buồm, những chiếc máy cắt đã thống trị thương mại thế giới.

Although many were built, only one has survived more or less intact: Cutty Sark, now on display in Greenwich, southeast London.

Mặc dù nhiều chiếc đã được chế tạo, nhưng chỉ có một chiếc ít nhiều còn nguyên vẹn: Cutty Sark, hiện được trưng bày ở Greenwich, đông nam London.

 

Cutty Sark’s unusual name comes from the poem Tam O’Shanter by the Scottish poet Robert Burns. Tam, a farmer, is chased by a witch called Nannie, who is wearing a ‘cutty sark’ – an old Scottish name for a short nightdress.

Cái tên lạ thường của Cutty Sark xuất phát từ bài thơ Tam O’Shanter của nhà thơ người Scotland Robert Burns. Tam, một nông dân, bị truy đuổi bởi một phù thủy tên là Nannie, người đang mặc một chiếc ‘cutty sark’ – một tên gọi cũ của Scotland cho một chiếc váy ngủ ngắn.

 

The witch is depicted in Cutty Sark’s figurehead – the carving of a woman typically at the front of old sailing ships.

  Phù thủy được miêu tả trong bức tượng bù nhìn của Cutty Sark hình chạm khắc một người phụ nữ thường ở phía trước những chiếc thuyền buồm cũ.

In legend, and in Burns’s poem, witches cannot cross water, so this was a rather strange choice of name for a ship.

Trong truyền thuyết, và trong bài thơ của Burns, các phù thủy không thể vượt qua mặt nước, vì vậy đây là một sự lựa chọn khá kỳ lạ về tên cho một con tàu.

Cutty Sark was built in Dumbarton, Scotland, in 1869, for a shipping company owned by John Willis.

Cutty Sark được chế tạo ở Dumbarton, Scotland, vào năm 1869, cho một công ty vận chuyển thuộc sở hữu của John Willis.

 

To carry out construction, Willis chose a new shipbuilding firm, Scott & Linton, and ensured that the contrast with them put him in a very strong position.

Để tiến hành xây dựng, Willis đã chọn một công ty đóng tàu mới, Scott & Linton, và đảm bảo rằng sự tương phản với họ sẽ đặt anh vào một vị trí rất mạnh.

In the end, the firm was forced out of business, and the ship was finished by a competitor.

Cuối cùng, công ty buộc phải ngừng kinh doanh và con tàu đã bị hoàn thành bởi một đối thủ cạnh tranh.

Willis’s company was active in the tea trade between China and Britain, where speed could bring shipowners both profits and prestige, so Cutty Sark was designed to make the journey quickly than any other ship.

Công ty của Willis hoạt động trong lĩnh vực buôn bán trà giữa Trung Quốc và Anh, nơi tốc độ có thể mang lại lợi nhuận và uy tín cho các chủ tàu, vì vậy Cutty Sark được thiết kế để thực hiện hành trình nhanh hơn bất kỳ con tàu nào khác.

 

On her maiden voyage, in 1870, she set sail from London, carrying large amounts of goods to China. She returned laden with tea, making the journey back to London in four months.

Trong chuyến đi đầu tiên của mình, vào năm 1870, cô ấy khởi hành từ London, mang theo một lượng lớn hàng hóa đến Trung Quốc. Cô ấy trở lại với đầy trà, thực hiện hành trình trở lại London sau bốn tháng.

However, Cutty Sark never lived up to the high expectations of her owner, as a result of bad winds and various misfortunes. On one occasion, in 1872, the ship and a rival clipper, Thermopylae, left port in China on the same day.

Tuy nhiên, Cutty Sark không bao giờ đáp ứng được kỳ vọng cao của chủ nhân, do gió xấu và nhiều điều bất hạnh khác nhau. Vào một dịp nọ, vào năm 1872, con tàu và một tàu kéo đối thủ, Thermopylae, rời cảng ở Trung Quốc trong cùng một ngày.

 

Crossing the Indian Ocean, Cutty Sark gained a lead of over 400 miles, but then her rudder was severely damaged in stormy seas, making her impossible to steer.

Băng qua Ấn Độ Dương, Cutty Sark đã vượt lên dẫn trước hơn 400 dặm, nhưng sau đó bánh lái của nó bị hư hại nghiêm trọng trong cơn bão biển, khiến nó không thể lái được.

The ship’s crew had the daunting task of repairing the rudder at sea and only succeeded at the second attempt. Cutty Sark reached London a week after Thermopylae.

Thủy thủ đoàn của con tàu có nhiệm vụ khó khăn là sửa chữa bánh lái trên biển và chỉ thành công ở lần thử thứ hai. Cutty Sark đến London một tuần sau Thermopylae.

 

Steamships posed a growing threat to clippers, as their speed and cargo capacity increased. In addition, the opening of the Suez Canal in 1869, the same year that Cutty Sark was launched, had a serious impact.

Tàu hơi nước là mối đe dọa ngày càng tăng đối với những người cắt xén, khi tốc độ và sức chứa hàng hóa của chúng tăng lên. Ngoài ra, việc mở kênh đào Suez vào năm 1869, cùng năm mà Cutty Sark được hạ thủy, đã có tác động nghiêm trọng.

 

While steam ships could make use of the quick, direct route between the Mediterranean and the Red Sea, the canal was of no use to sailing ships, which needed the much stronger winds of the oceans, and so had to sail a far greater distance. Steamships reduced the journey time between Britain and China by approximately two months.

Trong khi tàu chạy bằng hơi nước có thể tận dụng tuyến đường trực tiếp, nhanh chóng giữa Địa Trung Hải và Biển Đỏ, thì kênh đào này không có tác dụng đối với tàu buồm, vốn cần gió mạnh hơn nhiều của đại dương, và do đó phải đi một quãng đường xa hơn. Tàu hơi nước đã giảm thời gian hành trình giữa Anh và Trung Quốc khoảng hai tháng.

By 1878, tea traders weren’t interested in Cutty Sark, and instead, she took on the much less prestigious work of carrying any cargo between any two ports in the world.

Vào năm 1878, những người buôn chè không quan tâm đến Cutty Sark, và thay vào đó, cô ta nhận nhiệm vụ ít danh giá hơn là vận chuyển bất kỳ hàng hóa nào giữa hai cảng bất kỳ trên thế giới.

In 1880, violence aboard the ship led ultimately to the replacement of the captain with an incompetent drunkard who stole the crew’s wages.

Vào năm 1880, bạo lực trên tàu cuối cùng đã dẫn đến việc thay thế thuyền trưởng bằng một kẻ say rượu bất tài đã ăn cắp tiền lương của thủy thủ đoàn.

He was suspended from service, and a new captain was appointed. This marked a turnaround and the beginning of the most successful period in Cutty Sark’s working life, transporting wool from Australia to Britain. One such journey took just under 12 weeks, beating every other ship sailing that year by around a month.

Anh ta bị đình chỉ phục vụ và một đội trưởng mới được bổ nhiệm. Điều này đánh dấu một bước ngoặt và mở đầu cho thời kỳ thành công nhất trong cuộc đời làm việc của Cutty Sark, vận chuyển len từ Úc đến Anh. Một cuộc hành trình như vậy chỉ mất chưa đầy 12 tuần, đánh bại mọi con tàu khác ra khơi trong năm đó khoảng một tháng.

The ship’s next captain, Richard Woodget, was an excellent navigator, who got the best out of both his ship and his crew.

Thuyền trưởng tiếp theo của con tàu, Richard Woodget, là một nhà hàng hải xuất sắc, người đã tận dụng tốt nhất cả con tàu và thủy thủ đoàn của mình.

 

As a sailing ship, Cutty Sark depended on the strong trade winds of the southern hemisphere, and Woodget took her further south than any previous captain, bringing her dangerously close to icebergs off the southern tip of South America.

  Là một con tàu buồm, Cutty Sark phụ thuộc vào những cơn gió mậu dịch mạnh ở Nam bán cầu, và Woodget đã đưa cô đi xa hơn về phía nam so với bất kỳ thuyền trưởng nào trước đó, đưa cô đến gần những tảng băng trôi ngoài khơi cực nam của Nam Mỹ một cách nguy hiểm.

His gamble paid off, though, and the ship was the fastest vessel in the wool trade for ten years.

Tuy nhiên, canh bạc của anh đã được đền đáp và con tàu là con tàu nhanh nhất trong hoạt động buôn bán len trong mười năm.

As competition from steam ships increased in the 1890s, and Cutty Sark approached the end of her life expectancy, she became less profitable.

Khi sự cạnh tranh từ các tàu hơi nước gia tăng vào những năm 1890 và Cutty Sark sắp hết tuổi thọ, nó trở nên ít sinh lời hơn.

 

She was sold to a Portuguese firm, which renamed her Ferreira. For the next 25 years, she again carried miscellaneous cargoes around the world.

Cô ấy đã được bán cho một công ty Bồ Đào Nha, công ty này đã đổi tên cô ấy thành Ferreira. Trong 25 năm tiếp theo, cô lại chở hàng linh tinh đi khắp thế giới.

Badly damaged in a gale in 1922, she was put into Falmouth harbor in southwest England, for repairs. Wilfred Dowman, a retired sea captain who owned a training vessel, recognised her and tried to buy her, but without success.

Bị hư hại nặng trong một trận gió lớn vào năm 1922, nó được đưa vào cảng Falmouth ở tây nam nước Anh để sửa chữa. Wilfred Dowman, một thuyền trưởng đã nghỉ hưu, người sở hữu một tàu huấn luyện, đã nhận ra cô ấy và cố gắng mua cô ấy, nhưng không thành công.

 

She returned to Portugal and was sold to another Portuguese company. Dowman was determined, however, and offered a high price: this was accepted, and the ship returned to Falmouth the following year and had her original name restored.

Cô trở lại Bồ Đào Nha và được bán cho một công ty Bồ Đào Nha khác. Tuy nhiên, Dowman đã quyết tâm và đưa ra một mức giá cao: điều này đã được chấp nhận, và con tàu quay trở lại Falmouth vào năm sau và được khôi phục lại tên ban đầu.

Dowman used Cutty Sark as a training ship, and she continued in this role after his death. When she was no longer required, in 1954, she was transferred to a dry dock at Greenwich to go on public display.

Dowman đã sử dụng Cutty Sark như một con tàu huấn luyện, và nó tiếp tục đảm nhận vai trò này sau khi ông qua đời. Khi không còn cần thiết nữa, vào năm 1954, nó được chuyển đến ụ tàu ở Greenwich để trưng bày trước công chúng.

 

The ship suffered from fire in 2007, and again, less seriously, in 2014, but now Cutty Sark attracts a quarter of a million visitors a year.

Con tàu bị hỏa hoạn vào năm 2007, và một lần nữa, ít nghiêm trọng hơn, vào năm 2014, nhưng giờ đây Cutty Sark thu hút 1/4 triệu du khách mỗi năm.

Học thêm các bài dịch sách Cambridge IELTS mới nhất 👇👇👇

Whatever happened to the Harappan Civilisation– Cambridge IELTS 13, Test 3

How baby talk gives infant brains a boost – Cambridge IELTS 13, Test 3