Building the Skyline: The Birth and Growth of Manhattan’s Skyscrapers – Cambridge IELTS 17, Test 3

Building the Skyline: The Birth and Growth of Manhattan’s Skyscrapers – Cambridge IELTS 17, Test 3

 

 

Xây dựng đường chân trời: Sự ra đời và phát triển của các tòa nhà chọc trời ở Manhattan

 

Katharine L. Shester reviews a book by Jason Barr about the development of New York City

Katharine L. Shester đánh giá một cuốn sách của Jason Barr về sự phát triển của thành phố New York

In Building the Skyline, Jason Barr takes the reader through a detailed history of New York City. The book combines geology, history, economics, and a lot of data to explain why business clusters developed where they did and how the early decisions of workers and firms shaped the skyline we see today.

Trong Building the Skyline, Jason Barr đưa người đọc đi qua lịch sử chi tiết của thành phố New York. Cuốn sách kết hợp địa chất, lịch sử, kinh tế học và nhiều dữ liệu để giải thích lý do tại sao các cụm doanh nghiệp lại phát triển ở nơi chúng đã phát triển và những quyết định ban đầu của công nhân và doanh nghiệp đã định hình đường chân trời mà chúng ta thấy ngày nay như thế nào.

Building the Skyline is organized into two distinct parts. The first is primarily historical and addresses New York’s settlement and growth from 1609 to 1900; the second deals primarily with the 20th century and is a compilation of chapters commenting on different aspects of New York’s urban development.

Building the Skyline được tổ chức thành hai phần riêng biệt. Đầu tiên chủ yếu là lịch sử và đề cập đến việc định cư và phát triển của New York từ năm 1609 đến năm 1900; phần thứ hai chủ yếu đề cập đến thế kỷ 20 và là tập hợp các chương bình luận về các khía cạnh khác nhau trong quá trình phát triển đô thị của New York.

The tone and organization of the book change somewhat between the first and second parts, as the latter chapters incorporate aspects of Barr’s related research papers.

Giọng văn và cách sắp xếp của cuốn sách có phần thay đổi giữa phần thứ nhất và phần thứ hai, vì các chương sau kết hợp các khía cạnh của các tài liệu nghiên cứu liên quan của Barr.

Barr begins chapter one by taking the reader on a ‘helicopter time-machine ride – giving a fascinating account of how the New York landscape in 1609 might have looked from the sky.

Barr bắt đầu chương một bằng cách đưa người đọc đi trên ‘cỗ máy thời gian trực thăng’ – đưa ra một câu chuyện hấp dẫn về phong cảnh New York năm 1609 có thể trông như thế nào từ bầu trời.

He then moves on to a subterranean walking tour of the city, indicating the location of rock and water below the subsoil, before taking the reader back to the surface.

Sau đó, anh ấy chuyển sang một chuyến tham quan đi bộ dưới lòng đất của thành phố, chỉ ra vị trí của đá và nước bên dưới lòng đất, trước khi đưa người đọc trở lại bề mặt.

His love of the city comes through as he describes various fun facts about the location of the New York residence of early 19th-century vice-president Aaron Burr as well as a number of legends about the city.

Tình yêu của anh ấy đối với thành phố bắt đầu khi anh ấy mô tả nhiều sự thật thú vị khác nhau về vị trí dinh thự ở New York của phó tổng thống đầu thế kỷ 19 Aaron Burr cũng như một số truyền thuyết về thành phố.

Chapters two and three take the reader up to the Civil War (1861-1865), with chapter two focusing on the early development of land and the implementation of a grid system in 1811.

Chương hai và ba đưa người đọc đến với Nội chiến (1861-1865), với chương hai tập trung vào sự phát triển ban đầu của đất đai và việc triển khai hệ thống lưới điện vào năm 1811.

Chapter three focuses on land use before the Civil War. Both chapters are informative and well-researched and set the stage for the economic analysis that comes later in the book.

Chương ba tập trung vào việc sử dụng đất trước Nội chiến. Cả hai chương đều có nhiều thông tin và được nghiên cứu kỹ lưỡng, đồng thời tạo tiền đề cho các phân tích kinh tế ở phần sau của cuốn sách.

I would have liked Barr to expand upon his claim that existing tenements* prevented skyscrapers in certain neighborhoods because ‘likely no skyscraper developer was interested in performing the necessary “slum clearance”.

Tôi muốn Barr mở rộng tuyên bố của mình rằng các khu chung cư hiện có* đã ngăn cản các tòa nhà chọc trời ở một số khu vực lân cận vì ‘có vẻ như không có nhà phát triển tòa nhà chọc trời nào quan tâm đến việc thực hiện “việc giải phóng khu ổ chuột” cần thiết’.

Later in the book, Barr makes the claim that the depth of bedrock** was not a limiting factor for developers, as foundation costs were a small fraction of the cost of development.

Ở phần sau của cuốn sách, Barr đưa ra tuyên bố rằng độ sâu của nền đá** không phải là yếu tố hạn chế đối với các nhà phát triển, vì chi phí nền móng chỉ chiếm một phần nhỏ trong chi phí phát triển.

At first glance, it is not obvious why slum clearance would be limiting, while more expensive foundations would not.

Thoạt nhìn, không rõ tại sao việc giải phóng mặt bằng khu ổ chuột lại bị hạn chế, trong khi các cơ sở đắt tiền hơn thì không.

Chapter four focuses on immigration and the location of neighborhoods and tenements in the late 19th century.

Chương bốn tập trung vào vấn đề nhập cư và vị trí của các khu dân cư và khu chung cư vào cuối thế kỷ 19.

Barr identifies four primary immigrant enclaves and analyses their locations in terms of the amenities available in the area.

Barr xác định bốn khu dân cư chính của người nhập cư và phân tích vị trí của họ về các tiện nghi có sẵn trong khu vực.

Most of these enclaves were located on the least valuable land, between the industries located on the waterfront and the wealthy neighborhoods bordering Central Park.

Hầu hết các khu vực này nằm trên vùng đất ít giá trị nhất, giữa các ngành công nghiệp nằm trên bờ sông và các khu dân cư giàu có giáp với Công viên Trung tâm.

Part two of the book begins with a discussion of the economics of skyscraper height.

Phần hai của cuốn sách bắt đầu với cuộc thảo luận về tính kinh tế của chiều cao nhà chọc trời.

In chapter five, Barr distinguishes between engineering height, economic height, and developer height – where engineering height is the tallest building that can be safely made at a given time, economic height is the height that is most efficient from society’s point of view, and developer height is the actual height chosen by the developer, who is attempting to maximize return on investment.

Trong chương năm, Barr phân biệt giữa chiều cao kỹ thuật, chiều cao kinh tế và chiều cao nhà phát triển – trong đó chiều cao kỹ thuật là tòa nhà cao nhất có thể được xây dựng một cách an toàn tại một thời điểm nhất định, chiều cao kinh tế là chiều cao hiệu quả nhất theo quan điểm của xã hội và chiều cao của nhà phát triển là chiều cao thực tế được chọn bởi nhà phát triển, người đang cố gắng tối đa hóa lợi tức đầu tư.

Chapter Five also has an interesting discussion of the technological advances that led to the construction of skyscrapers.

Chương năm cũng có một cuộc thảo luận thú vị về những tiến bộ công nghệ dẫn đến việc xây dựng các tòa nhà chọc trời.

For example, the introduction of iron and steel skeletal frames made thick, load-bearing walls unnecessary, expanding the usable square footage of buildings and increasing the use of windows and availability of natural light.

Ví dụ, việc sử dụng các khung xương bằng sắt và thép đã làm cho các bức tường chịu lực dày trở nên không cần thiết, giúp mở rộng diện tích sử dụng của các tòa nhà và tăng cường sử dụng cửa sổ cũng như khả năng cung cấp ánh sáng tự nhiên.

Chapter six then presents data on building height throughout the 20th century and uses regression analysis to ‘predict’ building construction. While less technical than the research paper on which the chapter is based, it is probably more technical than would be preferred by a general audience.

Chương sáu sau đó trình bày dữ liệu về chiều cao tòa nhà trong suốt thế kỷ 20 và sử dụng phân tích hồi quy để ‘dự đoán’ việc xây dựng tòa nhà. Mặc dù ít kỹ thuật hơn so với tài liệu nghiên cứu làm cơ sở cho chương này, nhưng nó có thể mang tính kỹ thuật cao hơn so với mong muốn của độc giả nói chung.

Chapter seven tackles the ‘bedrock myth’, the assumption that the absence of bedrock close to the surface between Downtown and Midtown New York is the reason for skyscrapers not being built between the two urban centers.

Chương bảy đề cập đến ‘huyền thoại nền tảng’, giả định rằng việc không có nền tảng gần bề mặt giữa Trung tâm thành phố và Midtown New York là lý do khiến các tòa nhà chọc trời không được xây dựng giữa hai trung tâm đô thị.

Rather, Barr argues that while deeper bedrock does increase foundation costs, these costs were neither prohibitively high nor were large compared to the overall cost of building a skyscraper.

Thay vào đó, Barr lập luận rằng mặc dù nền đá sâu hơn làm tăng chi phí nền móng, nhưng những chi phí này không quá cao và cũng không quá lớn so với tổng chi phí xây dựng một tòa nhà chọc trời.

What I enjoyed the most about this chapter was Barr’s discussion of how foundations are actually built. He describes the use of caissons, which enable workers to dig down for considerable distances, often below the water table, until they reach bedrock.

Điều tôi thích nhất ở chương này là cuộc thảo luận của Barr về cách nền móng thực sự được xây dựng. Ông mô tả việc sử dụng các thùng chìm, cho phép công nhân đào sâu xuống những khoảng cách đáng kể, thường là bên dưới mực nước ngầm, cho đến khi chạm tới nền đá.

Barr’s thorough technological history discusses not only how caissons work, but also the dangers involved. While this chapter references empirical research papers, it is a relatively easy read.

Lịch sử công nghệ kỹ lưỡng của Barr không chỉ thảo luận về cách thức hoạt động của các thùng rác mà còn cả những mối nguy hiểm liên quan. Mặc dù chương này tham khảo các tài liệu nghiên cứu thực nghiệm, nhưng nó tương đối dễ đọc.

Chapters eight and nine focus on the birth of Midtown and the building boom of the 1920s.

Chương tám và chín tập trung vào sự ra đời của Midtown và sự bùng nổ xây dựng của những năm 1920.

Chapter eight contains lengthy discussions of urban economic theory that may serve as a distraction to readers primarily interested in New York. However, they would be well-suited for undergraduates learning about the economics of cities.

 Chương tám bao gồm các cuộc thảo luận dài dòng về lý thuyết kinh tế đô thị có thể làm xao nhãng những độc giả chủ yếu quan tâm đến New York. Tuy nhiên, chúng sẽ rất phù hợp cho sinh viên đại học học về kinh tế của các thành phố.

In the next chapter, Barr considers two of the primary explanations for the building boom of the 1920s – the first being exuberance, and the second being financing.

Trong chương tiếp theo, Barr xem xét hai trong số những lời giải thích chính cho sự bùng nổ xây dựng của những năm 1920 – lý do đầu tiên là sự thịnh vượng và lý do thứ hai là tài chính.

He uses data to assess the viability of these two explanations and finds that supply and demand factors explain much of the development of the 1920s; though it enable the boom, cheap credit was not, he argues, the primary cause.

Ông sử dụng dữ liệu để đánh giá tính khả thi của hai cách giải thích này và thấy rằng các yếu tố cung và cầu giải thích phần lớn sự phát triển của những năm 1920; Ông lập luận rằng mặc dù nó tạo ra sự bùng nổ, nhưng tín dụng giá rẻ không phải là nguyên nhân chính.

In the final chapter (chapter 10), Barr discusses another of his empirical papers that estimate Manhattan land values from the mid-19th century to the present day. The data work that went into these estimations is particularly impressive.

Trong chương cuối cùng (chương 10), Barr thảo luận về một bài báo thực nghiệm khác của ông ước tính giá trị đất đai ở Manhattan từ giữa thế kỷ 19 cho đến ngày nay. Công việc dữ liệu đi vào các ước tính này đặc biệt ấn tượng.

Toward the end of the chapter, Barr assesses ‘whether skyscrapers are a cause or an effect of high land values’. He finds that changes in land values predict future building height, but the reverse is not true.

Đến cuối chương, Barr đánh giá ‘liệu các tòa nhà chọc trời là nguyên nhân hay hậu quả của giá trị đất cao’. Ông phát hiện ra rằng những thay đổi về giá trị đất dự đoán chiều cao tòa nhà trong tương lai, nhưng điều ngược lại là không đúng.

The book ends with an epilogue, in which Barr discusses the impact of climate change on the city and makes policy suggestions for New York going forward.

Cuốn sách kết thúc bằng phần kết, trong đó Barr thảo luận về tác động của biến đổi khí hậu đối với thành phố và đưa ra các đề xuất chính sách cho New York trong tương lai.

————-

* a tenement: a multi-occupancy building of any sort, but particularly a run-down apartment building or slum building

* chung cư: tòa nhà nhiều người ở dưới bất kỳ hình thức nào, nhưng đặc biệt là tòa nhà chung cư hoặc tòa nhà ổ chuột xuống cấp

** bedrock: the solid, hard rock in the ground that lies under a loose layer of soil.

** đá gốc: đá rắn, cứng trong lòng đất nằm dưới một lớp đất tơi xốp

 

Học thêm các bài Cambridge IELTS  mới nhất 👇👇👇

Palm Oil – Cambridge IELTS 17, Test 3

The Thylacine – Cambridge IELTS 17, Test3