The Growth Mindset- Cambridge IELTS 18, Test 4
Tư duy phát triển
Over the past century, a powerful idea has taken root in the educational landscape. The concept of intelligence as something innate has been supplanted by the idea that intelligence is not fixed, and that, with the right training, we can be the authors of our own cognitive capabilities.
Trong thế kỷ qua, một ý tưởng mạnh mẽ đã bén rễ trong bối cảnh giáo dục. Khái niệm về trí thông minh như một thứ gì đó bẩm sinh đã được thay thế bằng ý tưởng cho rằng trí thông minh không cố định, và nếu được đào tạo đúng cách, chúng ta có thể là tác giả của khả năng nhận thức của chính mình.
Psychologist Alfred Binet, the developer of the first intelligence tests, was one of many 19th-century scientists who held that earlier view and sought to quantify cognitive ability.
Nhà tâm lý học Alfred Binet, người phát triển các bài kiểm tra trí thông minh đầu tiên, là một trong nhiều nhà khoa học ở thế kỷ 19 giữ quan điểm trước đó và tìm cách định lượng khả năng nhận thức.
Then, in the early 20th century, progressive thinkers revolted against the notion that inherent ability is destiny. Instead, educators such as John Dewey argued that every child’s intelligence could be developed, given the right environment.
Sau đó, vào đầu thế kỷ 20, các nhà tư tưởng tiến bộ đã nổi dậy chống lại quan điểm cho rằng khả năng vốn có là định mệnh. Thay vào đó, các nhà giáo dục như John Dewey lập luận rằng trí thông minh của mọi đứa trẻ đều có thể được phát triển nếu có môi trường phù hợp.
‘Growth mindset theory’ is a relatively new – and extremely popular – version of this idea. In many schools today you will see hallways covered in motivational posters and hear speeches on the mindset of great sporting heroes who simply believed their way to the top.
‘Lý thuyết tư duy phát triển’ là một phiên bản tương đối mới – và cực kỳ phổ biến – của ý tưởng này. Ở nhiều trường học ngày nay, bạn sẽ thấy các hành lang phủ đầy áp phích động viên và nghe các bài phát biểu về tư duy của những anh hùng thể thao vĩ đại, những người chỉ đơn giản tin rằng họ sẽ đạt đến đỉnh cao.
A major focus of the growth mindset in schools is coaxing students away from seeing failure as an indication of their ability, and towards seeing it as a chance to improve that ability.
Trọng tâm chính của tư duy phát triển trong trường học là khuyến khích học sinh tránh xa việc coi thất bại là dấu hiệu thể hiện khả năng của mình và hướng tới việc coi đó là cơ hội để cải thiện khả năng đó.
As educationalist, Jeff Howard noted several decades ago: ‘Smart is not something that you just are, smart is something that you can get.’
Như nhà giáo dục Jeff Howard đã lưu ý vài thập kỷ trước: ‘Thông minh không phải là thứ bạn có, thông minh là thứ bạn có thể đạt được’.
The idea of the growth mindset is based on the work of psychologist Carol Dweck in California in the 1990s. In one key experiment, Dweck divided a group of 10- to 12-year-olds into two groups.
Ý tưởng về tư duy phát triển dựa trên công trình của nhà tâm lý học Carol Dweck ở California vào những năm 1990. Trong một thí nghiệm quan trọng, Dweck đã chia một nhóm trẻ từ 10 đến 12 tuổi thành hai nhóm.
All were told that they had achieved a high score on a test but the first group were praised for their intelligence in achieving this, while the others were praised for their effort.
Tất cả đều được thông báo rằng họ đã đạt được điểm cao trong một bài kiểm tra nhưng nhóm đầu tiên được khen ngợi vì sự thông minh khi đạt được điều này, trong khi những người khác được khen ngợi vì nỗ lực của họ.
The second group – those who had been instilled with a ‘growth mindset’ – were subsequently far more likely to put effort into future tasks.
Nhóm thứ hai – những người đã được thấm nhuần “tư duy phát triển” – sau đó có nhiều khả năng sẽ nỗ lực hơn rất nhiều cho các nhiệm vụ trong tương lai.
Meanwhile, the former took on only those tasks that would not risk their sense of worth. This group had inferred that success or failure is due to innate ability, and this ‘fixed mindset’ had led them to fear failure and lack of effort. Praising ability actually made the students perform worse while praising effort emphasized that change was possible.
Trong khi đó, những người trước chỉ đảm nhận những nhiệm vụ không mạo hiểm với ý thức về giá trị của họ. Nhóm này đã suy luận rằng thành công hay thất bại là do khả năng bẩm sinh, và “tư duy cố định” này đã khiến họ sợ thất bại và thiếu nỗ lực. Khen ngợi khả năng thực sự khiến học sinh thể hiện kém hơn, trong khi khen ngợi nỗ lực nhấn mạnh rằng sự thay đổi là có thể.
One of the greatest impediments to successfully implementing a growth mindset, however, is the education system itself: in many parts of the world, the school climate is obsessed with performance in the form of constant testing, analyzing, and ranking of students – a key characteristic of the fixed mindset.
Tuy nhiên, một trong những trở ngại lớn nhất để thực hiện thành công tư duy phát triển chính là hệ thống giáo dục: ở nhiều nơi trên thế giới, môi trường học đường bị ám ảnh bởi thành tích dưới hình thức liên tục kiểm tra, phân tích và xếp hạng học sinh – một đặc điểm chính của tư duy cố định.
Nor is it unusual for schools to create a certain cognitive dissonance, when they applaud the benefits of a growth mindset but then hand out fixed target grades in lessons based on performance.
Cũng không có gì lạ khi các trường học tạo ra sự bất hòa nhất định về nhận thức, khi họ hoan nghênh những lợi ích của tư duy phát triển nhưng sau đó lại đưa ra các mục tiêu cố định trong các bài học dựa trên hiệu suất.
Aside from the implementation problem, the original growth mindset research has also received harsh criticism.
Bên cạnh vấn đề triển khai, nghiên cứu về tư duy tăng trưởng ban đầu cũng bị chỉ trích gay gắt.
The statistician Andrew Gelman claims that ‘their research designs have enough degrees of freedom that they could take their data to support just about any theory at all’.
Nhà thống kê Andrew Gelman tuyên bố rằng ‘các thiết kế nghiên cứu của họ có đủ mức độ tự do để họ có thể lấy dữ liệu của mình để hỗ trợ cho bất kỳ lý thuyết nào’.
Professor of Psychology Timothy Bates, who has been trying to replicate Dweck’s work, is finding that the results are repeatedly null. He notes that: ‘People with a growth mindset don’t cope any better with failure … Kids with the growth mindset aren’t getting better grades, either before or after our intervention study.’
Giáo sư Tâm lý học Timothy Bates, người đã cố gắng sao chép công trình của Dweck, nhận thấy rằng các kết quả liên tục là vô giá trị. Ông lưu ý rằng: ‘Những người có tư duy cầu tiến không đối phó với thất bại tốt hơn chút nào… Những đứa trẻ có tư duy cầu tiến không đạt điểm cao hơn, trước hoặc sau nghiên cứu can thiệp của chúng tôi.’
Much of this criticism is not lost on Dweck, and she deserves great credit for responding to it and adapting her work accordingly.
Phần lớn những lời chỉ trích này không ảnh hưởng đến Dweck, và cô ấy xứng đáng được ghi nhận vì đã phản hồi nó và điều chỉnh công việc của mình cho phù hợp.
In fact, she argues that her work has been misunderstood and misapplied in a range of ways.
Trên thực tế, cô ấy lập luận rằng công việc của cô ấy đã bị hiểu sai và áp dụng sai theo nhiều cách.
She has also expressed concerns that her theories are being misappropriated in schools by being conflated with the self-esteem movement: ‘For me the growth mindset is a tool for learning and improvement. It’s not just a vehicle for making children feel good.’
Cô ấy cũng bày tỏ lo ngại rằng các lý thuyết của cô ấy đang bị áp dụng sai mục đích trong trường học do bị kết hợp với phong trào tự trọng: ‘Đối với tôi, tư duy phát triển là một công cụ để học hỏi và cải thiện. Nó không chỉ là một phương tiện giúp trẻ em cảm thấy dễ chịu.’
But there is another factor at work here. The failure to translate the growth mindset into the classroom might reflect a misunderstanding of the nature of teaching and learning itself.
Nhưng có một yếu tố khác tại nơi làm việc ở đây. Việc không áp dụng tư duy phát triển vào lớp học có thể phản ánh sự hiểu sai về bản chất của việc dạy và học.
Growth mindset supporters David Yeager and Gregory Walton claim that interventions should be delivered in a subtle way to maximize their effectiveness.
Những người ủng hộ tư duy phát triển David Yeager và Gregory Walton cho rằng các biện pháp can thiệp nên được thực hiện một cách tinh tế để tối đa hóa hiệu quả của chúng.
They say that if adolescents perceive a teacher’s intervention as conveying that they are in need of help, this could undo its intended effects.
Họ nói rằng nếu thanh thiếu niên coi sự can thiệp của giáo viên là để truyền đạt rằng họ đang cần giúp đỡ, thì điều này có thể làm mất tác dụng dự kiến của nó.
A lot of what drives students is their innate beliefs and how they perceive themselves.
Rất nhiều điều thúc đẩy sinh viên là niềm tin bẩm sinh của họ và cách họ nhìn nhận bản thân.
There is a strong correlation between self-perception and achievement, but there is evidence to suggest that the actual effect of achievement on self-perception is stronger than the other way round.
Có một mối tương quan chặt chẽ giữa nhận thức về bản thân và thành tích, nhưng có bằng chứng cho thấy tác động thực sự của thành tích đối với nhận thức về bản thân mạnh hơn so với chiều ngược lại.
To stand up in a classroom and successfully deliver a good speech is a genuine achievement, and that is likely to be more powerfully motivating than vague notions of ‘motivation’ itself.
Đứng lên trong lớp học và có một bài phát biểu hay là một thành tích thực sự, và điều đó có khả năng tạo động lực mạnh mẽ hơn so với những khái niệm mơ hồ về bản thân ‘động lực’.
Recent evidence would suggest that growth mindset interventions are not the elixir of student learning that its proponents claim it to be.
Bằng chứng gần đây cho thấy rằng các biện pháp can thiệp tư duy phát triển không phải là thuốc tiên giúp học sinh học tập như những người ủng hộ nó khẳng định.
The growth mindset appears to be a viable construct in the lab, which, when administered in the classroom via targeted interventions, doesn’t seem to work.
Tư duy phát triển dường như là một cấu trúc khả thi trong phòng thí nghiệm, khi được áp dụng trong lớp học thông qua các biện pháp can thiệp có mục tiêu, dường như không hoạt động.
It is hard to dispute that having faith in the capacity to change is a good attribute for students. Paradoxically, however, that aspiration is not well served by direct interventions that try to instill it.
Khó có thể phủ nhận rằng niềm tin vào khả năng thay đổi là một thuộc tính tốt cho học sinh. Tuy nhiên, nghịch lý thay, nguyện vọng đó không được đáp ứng tốt bằng những can thiệp trực tiếp cố gắng truyền đạt nó.
Motivational posters and talks are often a waste of time, and might well give students a deluded notion of what success actually means.
Các áp phích và bài giảng tạo động lực thường lãng phí thời gian và có thể khiến học sinh có một quan niệm sai lầm về ý nghĩa thực sự của thành công.
Teaching concrete skills such as how to write an effective introduction to an essay and then praising students’ effort in getting there is probably a far better way of improving confidence than telling them how unique they are, or indeed how capable they are of changing their own brains.
Dạy các kỹ năng cụ thể như cách viết phần mở đầu hiệu quả cho một bài luận, sau đó khen ngợi nỗ lực của học sinh trong việc đạt được điều đó có lẽ là một cách tốt hơn nhiều để nâng cao sự tự tin hơn là nói với họ rằng họ độc đáo như thế nào hoặc thực sự họ có khả năng thay đổi bộ não của chính mình như thế nào.
Perhaps a growth mindset works best as a philosophy and not an intervention.
Có lẽ tư duy phát triển hoạt động tốt nhất với tư cách là một triết lý chứ không phải là một biện pháp can thiệp.
Học thêm các bài Cambridge IELTS 18 mới nhất 👇👇👇
Green Roofs – Cambridge IELTS 18, Test 4
The Case For Mixed-Ability Classes – Cambridge IELTS 18, Test 3